Tóm tắt tiểu sử Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch – “Cái tát” vào kẻ nói Đại tướng không biết đọc bản đồ

Những ngày qua lan truyền thông tin lần đầu tiên trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam có Bộ trưởng Quốc Phòng không biết đọc bản đồ. Liệu đây có phải là thông tin xuyên tạc, khi nhìn lại tiểu sử của ông Bộ trưởng? 

Chính trị gia Ngô Xuân Lịch sinh ngày 4-8-1954 tại Tỉnh Hà Nam, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Sư Tử, cầm tinh con (giáp) ngựa (Giáp Ngọ 1954). Ngô Xuân Lịch xếp hạng nổi tiếng thứ 75.389 trên thế giới và thứ 1.858 trong danh sách Chính trị gia nổi tiếng.

Ngô Xuân Lịch là Bộ trưởng bộ Quốc Phòng và là Đại tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông cũng là một Ủy viên bộ chính trị, Đại biểu quốc hội quá 13-14, và là Phó bí thư quân ủy trung ương.

Ngô Xuân Lịch được kết nạp đảng viên vào ngày 04/08/1974. Ông là Ủy viên Trung ương đảng từ khóa X-XII, là Ủy Viên bộ chính trị khóa XII, là Đại biểu Quốc Hội khóa XIII, XIV, Bí thư trung ương đảng khóa XI. Tháng 04 năm 2016, với sự tán thành của các đại biểu tại kỳ họp quốc hội khóa XIII, Dương Xuân Lịch đã được bổ nhiệm vào vị trí Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Ngày 08/01/2017, bộ trưởng Ngô Xuân Lịch đã đích thân đến Đà Nẵng kiểm tra công tác xử lý chất độc hóa học dioxin tại sân bay Đà Nẵng. Được biết, dự án xử lý chất độc dioxin ở sân bay Đã Nẵng đã được bắt đầu từ giữa năm 2011. Đến nay, dự án đã xử lý được 45000m3 đất nhiễm chất độc hóa học dioxin và đã giải phóng 19ha đất, ao, hồ. Đến tháng 11 năm 2016, dự án này đã đi đến tiến trình xử lý nhiệt và đưa các thông số môi trường tại đây về mức đáp ứng với tiêu chuẩn.

TÓM TẮT QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC:

01/1972 – 7/1973: Chiến sỹ, Tiểu đội phó, Tiểu đoàn 14, Sư đoàn 320, Sư đoàn 308.

8/1973 – 10/1974: Tiểu đội trưởng, Tiểu đoàn 14, Trung đoàn 55, Sư đoàn 341, Quân khu 4.

11/1974 – 10/1978: Trung úy, Trung đội trưởng, Chính trị viên phó, Chính trị viên đại đội, Đảng ủy viên Đảng ủy Tiểu đoàn 14, Trung đoàn 55, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4.

11/1978 – 3/1981: Thượng úy, Trợ lý tổ chức Phòng Chính trị, Sư đoàn 341, Quân khu 4.

4/1981 – 8/1982: Thượng úy, Học viên Trung cấp Trường Quân chính, Quân khu 4; Học viên Trường Văn hoá Quân đội.

9/1982 – 7/1985: Đại úy, Học viên Học viện Chính trị – Quân sự.

8/1985 – 7/1987: Đại úy, Phó Chủ nhiệm chính trị, Phó Trung đoàn trưởng về chính trị, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn, Trung đoàn 667, Trung đoàn 779, Sư đoàn 346, Quân đoàn 26, Quân khu 1; Đảng ủy viên Đảng ủy Quân sự tỉnh Cao Bằng.

8/1987 – 01/1988: Thiếu tá, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn, Phó Trung đoàn trưởng về chính trị Trung đoàn 462, Sư đoàn 392, Quân khu 1.

02/1988 – 8/1994: Trung tá, Trợ lý Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị; Học viên Học viện Quốc phòng (1992).

9/1994 – 10/2000: Thượng tá, Phó phòng, Trưởng phòng Công tác Chính trị rồi Phó Cục trưởng Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị; Học viên hoàn thiện cử nhân tại Học viện Chính trị – Quân sự (1995 – 1996).

11/2000 – 4/2003: Đại tá, Phó Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị.

5/2003 – 11/2004: Đại tá, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Chủ nhiệm chính trị Quân khu 3.

12/2004 – 3/2006: Thiếu tướng, Bí thư Đảng ủy, Phó Tư lệnh chính trị Quân khu 3.

4/2006 – 11/2007: Thiếu tướng rồi Trung tướng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 3. Học lớp nghiên cứu cán bộ cao cấp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2006). Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng; được chỉ định tham gia Đảng ủy Quân sự Trung ương.

12/2007 – 01/2011: Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Đảng ủy Quân sự Trung ương, Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

01/2011 – 02/2011: Ủy viên Trung ương Đảng, Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng; được chỉ định Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương.

02/2011 – 12/2015: Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thượng tướng (tháng 12/2011), Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Đại biểu Quốc hội khoá XIII (Thăng quân hàm Đại tướng tháng 10/2015).

01/2016 – 4/2016: Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Đại tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Từ 4/2016-nay: Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Cán sự đảng Chính phủ, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng./.

Trong thời gian giữ chức Bộ trưởng, ông đã có nhiều công hiến trong việc giữ gìn hòa bình ổn định, bảo vệ đất nước, biển đảo. Hiện ngoài khơi Tư Chính TQ ngang ngược gây hấn điều tàu đến gây rối, nhưng phía Quốc phòng Việt Nam đâu để yên cho TQ thực hiện mưu đồ độc chiếm biển Đông. VN đã điều tàu chiến, TQ 40 thì ta cũng 50 chứ đâu chịu thua. Cuộc chiến ngoài biển Đông không chỉ dùng sức mà còn phải mưu trí để đấu với kẻ tiểu nhân như TQ. Nếu quân đội ta không mưu trí thì Tư Chính đã rơi vào tay giặc từ lâu.

Tuy TQ ngang ngược tuyên bố Tư Chính thuộc chủ quyền của nước này nhưng đến nay Bắc Kinh chỉ xua tàu gây xung đột chứ chẳng xơ múi được gì.

Xin thưa bản lĩnh của vị tướng không chỉ tài giỏi mà còn phải mưu lược. Đấy bấy nhiêu thôi chưa kể chiến tích của ông trong nhiệm kỳ, đã đủ “tát” vào mặt kẻ đã bảo ông không biết đọc bản đồ hay chưa?

(Khánh Lâm)/ FB ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐI