Obama và bộ sậu thao túng khiến nước Mỹ suy yếu, ngó lơ cho Trung Quốc hung hăng cưỡng chiếm Biển Đông
Trong di sản của mình, Tổng thống Barack Obama không chỉ khiến thế giới trở nên hỗn loạn hơn, mà còn làm suy giảm nghiêm trọng sức mạnh của nước Mỹ. Với chính sách thận trọng đầy thiện chí của Obama dành cho Trung Quốc – quốc gia cường bạo nhất thế giới này đã chớp lấy cơ hội “ngàn năm có một” để đẩy mạnh một mạng lưới các “pháo đài” đảo nhân tạo trên Biển Đông, hòng kiểm soát tuyến đường hàng hải quan trọng bậc nhất thế giới trong thế kỷ 21.
Trong cuộc tranh luận của các ứng viên Cộng hòa trên truyền hình vào tháng 2/2016, Thượng nghị sĩ Marco Rubio bị chế giễu vì ông nhắc đi nhắc lại rằng: “Hãy bỏ ngay suy nghĩ rằng Barack Obama không biết mình đang làm gì. Ông ta biết chính xác mình đang làm gì”.
Marco Rubio được coi là một trong những Thượng nghị sĩ Cộng hòa “nhạy cảm”, thường xuyên lên án TQ, và quan điểm của ông về Barack Obama vào thời điểm ấy chưa hẳn tất cả mọi người đều đồng ý: Đó là Tổng thống Obama đang thực hiện kế hoạch cố ý làm suy giảm, làm tổn hại, hoặc thậm chí là phá hủy hoàn toàn nước Mỹ…
Trung Quốc nắn gân, coi thường – tân Tổng thống bày tỏ thiện chí
Năm 2009 khi mới nhậm chức, Tổng thống Barack Obama bắt đầu nhiệm kỳ đầu tiên với sự kỳ vọng duy nhất vào lợi ích chung với Trung Quốc. Chỉ trích chủ nghĩa đơn phương của Tổng thống George W Bush và hạ thấp yếu tố Cam kết của chính quyền tiền nhiệm, Tổng thống Obama đề nghị mối quan hệ PCC (Tích cực, Hợp tác và Toàn diện) thay thế CCC (Hợp tác, Xây dựng và Thẳng thắn) của Tổng thống G.Bush với Trung Quốc.
Phải chăng khi sử dụng từ ‘Tích cực’ thay thế ‘Thẳng thắn’, ông Obama đã phản ánh quan điểm của chính quyền ông phải miễn cưỡng khi thách thức Trung Quốc về các vấn đề bất đồng nhạy cảm? Và khi sử dụng từ “Toàn diện”, Tổng thống Obama hé lộ lập trường “bắt tay” với Trung Quốc.
Tháng 11/2009 – 10 tháng sau khi nhậm chức – Tổng thống Obama đã có chuyến thăm đầu tiên tới Trung Quốc. Khi đó, ông được xem là một nhà lãnh đạo có tư tưởng tiến bộ, mang theo “làn sóng” đầy thiện chí với Trung Quốc và trong ưu thế Đảng Dân chủ của ông đang kiểm soát Quốc hội.
Thời điểm lần đầu tiên sang thăm Trung Quốc dưới vai trò Tổng thống Mỹ, Obama được xem là một nhà lãnh đạo có tư tưởng tiến bộ, mang theo “làn sóng” đầy thiện chí với Trung Quốc. (Ảnh: Getty)
Đặt mối quan hệ lợi ích với Trung Quốc lên hàng đầu, trong bối cảnh nền kinh tế nước Mỹ đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Tổng thống Obama phát biểu trên tờ The Times rằng, mục tiêu của ông là “cải cách tài chính, chứ không phải là nhà lãnh đạo của thế giới tự do”.
Giới lãnh đạo TQ đã coi phát biểu này là dấu hiệu của sự yếu đuối, và nhanh chóng thực hiện cương lĩnh ngoại giao “dằn mặt” để thể hiện một lập trường mạnh mẽ hơn trên sân khấu thế giới: Đó là làm bẽ mặt nguyên thủ của cường quốc hàng đầu thế giới.
Trong khi các bài phát biểu của các Tổng thống tiền nhiệm Bill Clinton và George W Bush đều được Bắc Kinh cho truyền hình trực tiếp, thì bài phát biểu của Tổng thống Obama tại Tòa Thị chính ở Thượng Hải lại không hề. Trong các cuộc họp báo chung với Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Tổng thống Obama cũng bị “chặn” không cho được tiếp xúc công khai, và thậm chí không có được một cuộc họp báo có ý nghĩa.
TQ đã kiểm soát gần như mọi hoạt động của Tổng thống Mỹ trên đất nước họ. Orville Schell, một nhà nghiên cứu về Trung Quốc cho biết: “Ông ấy không được phép nói nhiều. Người Trung Quốc chỉ cho ông ấy gặp gỡ những người họ ấn định”.
Sự đối xử đầy khiếm nhã của Bắc Kinh chưa dừng tại đó. Trong cuộc hội kiến với Tổng thống Obama, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nói thẳng với nhà lãnh đạo Mỹ rằng, Trung Quốc không đồng ý với cụm từ “G2” – ám chỉ đã soán ngôi độc quyền của nước Mỹ.
Khi vừa mới nhậm chức, Tổng thống Obama từng đặt hy vọng Bắc Kinh sẽ hợp tác với Mỹ – mà ông gọi là nhóm G2 – để giải quyết các vấn đề nổi cộm trên thế giới. Obama cũng chính là người đã tìm cách tiếp cận với nhà lãnh đạo TQ, và quyết định không gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma để tránh làm Bắc Kinh nổi giận. Barack Obama cũng là vị tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Trung Quốc ngay năm đầu nhiệm kỳ. Tuy nhiên, chuyến thăm đầu tiên này của ông đã phải nhận quả đắng.
Chưa đầy 1 tháng sau, tại Hội nghị Thượng đỉnh Khí hậu Copenhagen tại Đan Mạch, Trung Quốc đã có cử chỉ coi thường Tổng thống Mỹ khi chỉ cử một thứ trưởng Bộ Ngoại giao tới tham dự sự kiện dành cho các nguyên thủ quốc gia thế giới.
Gần 2 năm sau, ngày 12/1/2011, tờ China Daily đăng bài: Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia số 1 thế giới. Đáng chú ý là bài báo này được đăng ngay trước thềm chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tới Washington gặp Tổng thống Obama.
Liệu có thể tin bài báo này xuất hiện một cách ngẫu nhiên trên tờ báo ngôn luận của TQ, và lại còn thảo luận một cách công khai Trung Quốc là quốc gia hàng đầu thế giới? Đơn giản, đó là một tín hiệu táo bạo cho thấy TQ “bắn tin” cho ông chủ Nhà Trắng về dự định “soán ngôi” số 1 của nước Mỹ.
‘Sự cố ngoại giao’ thể hiện thái độ coi thường của Trung Quốc đối với tổng thống Obama trong chuyển thăm Trung Quốc vào năm 2016. Để so sánh, Thủ tướng Angela Merkel đi trên thảm đỏ (trái), ông Obama đi lối cửa sau của máy bay bằng thang thường (phải). (Ảnh chụp video)
Trong chuyến thăm đầu tiên tới Trung Quốc, Tổng thống Obama đã thể hiện sự khiêm nhường và đầy thiện ý, như thể để đảm bảo với lãnh đạo TQ rằng, nước Mỹ không phải tìm cách kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Nhưng nhà lãnh đạo TQ trong chuyến thăm đầu tiên tới Mỹ – không phải để thể hiện sự khiêm nhường giống như ông Obama đã từng làm với họ – mà là để công khai cho chính quyền Obama thấy ý định rõ ràng rằng, Trung Quốc sẽ thống trị thế giới.
Chuyến thăm 4 ngày trên đất Mỹ của ông Hồ Cẩm Đào đã được Tổng thống Barack Obama tiếp đón bằng lễ nghi long trọng nhất, với thảm đỏ và yến tiệc tại Nhà Trắng. Nhưng liệu có ngẫu nhiên hay không khi ông Obama mở tiệc chiêu đãi vào tối ngày 19/1/2011, cũng đúng là ngày cách đó 37 năm về trước, Trung Quốc xua quân xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam (19/1/1974).
Đó phải chăng là khúc dạo đầu “nhường ngôi” của Hồ Cẩm Đào cho Tập Cận Bình, để TQ bắt đầu một cuộc viễn chinh ồ ạt tại Biển Đông…
Bất chấp đại dịch, tình hình Biển Đông trong những ngày này lại nóng lên bởi các hành động ngỗ ngược gây hấn, chèn ép, tấn công của Trung Quốc trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á. Chính quyền Tổng thống Donald Trump đã liên tiếp lên án các hoạt động khiêu khích, yêu cầu Trung Quốc dừng các hành vi bắt nạt, cũng như gửi các tín hiệu cảnh cáo mạnh mẽ tới chính quyền Bắc Kinh, đồng thời điều tàu chiến tới Biển Đông trong những ngày gần đây.
Trong bối cảnh này, hầu như các nhà quan sát, chuyên gia quân sự và nguyên thủ các nước có chủ quyền đang tranh chấp đều tập trung tìm cách đối phó với động thái tiếp theo của Trung Quốc tại Biển Đông. Nhưng tất cả đều quên mất một điều rằng, tình huống phức tạp này bắt nguồn từ sự xử lý yếu đuối và bạc nhược của chính quyền tiền nhiệm Obama, đã hà hơi tiếp sức cho Trung Quốc ồ ạt xâm lấn.
Là tổng thống của một cường quốc hàng đầu về quân sự và kinh tế, nhưng sự nhún nhường có phần yếu nhược của ông Obama trước Trung Quốc càng khiến quốc gia độc tài này trở nên hung hăng hơn bao giờ hết và quyết liệt giành lấy vị thế số 1 của nước Mỹ. (Ảnh: Getty)
Tháng 2/2009, khi vừa mới nhậm chức, Tổng thống Obama đã công bố kế hoạch cắt giảm quân số lính Mỹ đóng tại nước ngoài từ 160.000 xuống còn 50.000 quân vào tháng 8/2010, bao gồm cả việc loại bỏ tất cả các lực lượng chiến đấu. Lực lượng quân đội còn lại, sẽ được rút hết vào cuối năm 2011.
Từ nhiều năm nay, Bắc Kinh đã thèm muốn kiểm soát Biển Đông cả về tài nguyên thiên nhiên lẫn địa hình chiến lược. Nhưng cuộc thâu tóm Biển Đông của Trung Quốc đã diễn ra “sôi động” nhất trong 8 năm nhiệm kỳ của Tổng thống Obama.
Năm 2010, chính quyền Obama bắt đầu vào cuộc khi Trung Quốc đe dọa, buộc Tập đoàn Exxon Mobil của Mỹ phải ngừng khai thác ở vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tại Hội nghị ASEAN tổ chức tại Hà Nội (2010), bà Ngoại trưởng Hillary Clinton khi ấy đã tuyên bố rằng, giải quyết tranh chấp ở Biển Đông là ưu tiên ngoại giao hàng đầu của chính quyền Obama.
Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tại Biển Đông thực sự bắt đầu vào tháng 4/2012 khi Tổng thống Obama bước vào nhiệm kỳ thứ hai. Chính quyền Bắc Kinh đã lùa tàu chiếm giữ toàn bộ rạn san hô có tên là Bãi cạn Scarborough, thuộc Vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Đây là lần sử dụng vũ lực táo bạo nhất của Trung Quốc tại khu vực này.
Tháng 6/2012, một phái đoàn ngoại giao do Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Kurt Campbell dẫn đầu đứng ra làm trung gian cho thỏa thuận hòa bình, nhưng Trung Quốc ngay tức thời phá vỡ. Một tháng sau, Trung Quốc tiếp tục leo thang bằng cách phong tỏa một phần Bãi cạn – nơi nhiều thế hệ người Philippines đã đánh bắt thủy sản tại đây – và ban hành lệnh cấm đánh cá 15 hải lý quanh rạn san hô.
Lúc này, có một điều thực sự kỳ lạ gây chú ý xảy ra: Chính quyền Obama đã hoàn toàn giữ im lặng trước cuộc khủng hoảng mới này. Đối với Bắc Kinh, đây không khác gì là một tín hiệu gợi mở khuyến khích Trung Quốc tiến sâu hơn vào vùng lãnh thổ của Philippines, và tạo ra thế tranh chấp. Một số quan chức Trung Quốc hé lộ rằng: “Chúng tôi không thể tin rằng Mỹ đã không phản ứng gì”.
Đối với chính quyền Obama, Tổng thống Mỹ coi đó là một tranh chấp nhỏ, và không muốn mạo hiểm sử dụng răn đe nhằm tránh đối đầu với Trung Quốc. Một cựu quan chức Mỹ tiết lộ, Tổng thống Obama không muốn có bất kỳ sự xáo trộn nào làm ảnh hưởng đến mối quan hệ với Trung Quốc.
Đối với Philippines – đồng minh thân cận của Mỹ đang trong thế bị chính quyền Obama bỏ rơi, lại không có lực lượng hải quân đủ mạnh để thực thi các biện pháp chống lại Trung Quốc, đã đệ đơn kiện lên Tòa án Trọng tài Thường trực của Liên Hợp Quốc vào tháng 1/2013.
Philippines đã trở thành “cú hích” cho các quốc gia nhỏ bé trong khu vực tự tin hơn, khi nước này không chỉ giới hạn tại Bãi cạn Scarborough, mà còn kiện luôn đường 9 đoạn khét tiếng của Trung Quốc – chiếm tới hơn 80% diện tích Biển Đông, bao trùm cả Bãi cạn Scarborough, quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Vụ kiện này của Philippines cùng lúc thách thức quyền lực của Trung Quốc, trong việc nước này tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý quanh các đảo Vành Khăn và Chữ Thập ở Trường Sa (Philippines gọi là Mischief Reef và Fiery Cross Reef), nơi chính quyền Bắc Kinh đang bận rộn xây dựng các tiền đồn quân sự vững chắc.
Câu hỏi đặt ra là, liệu một quốc gia hiếu chiến và xảo trá như Trung Quốc sẽ tuân theo các quy tắc quốc tế, hay tiếp tục kéo đội tàu đi xâm chiếm Biển Đông? Tất nhiên, vế thứ nhất sẽ khó xảy ra, và vế thứ hai lại càng khó xảy ra nếu không phải vì sự thất bại của Tổng thống Obama khi đối phó với Bãi cạn Scarborough.
Ngoài việc kiêng dè Trung Quốc, thất bại của Hoa Kỳ trong chính sách ngoại giao tại Bãi cạn Scarborough còn có “công” rất lớn của bà Ngoại trưởng Hillary Clinton đối với chính sách Xoay trục Châu Á – Thái Bình Dương (CA-TBD), cùng với việc Tổng thống Obama cắt giảm số lượng tàu chiến Mỹ xuống mức thấp kỷ lục trong nhiều thập kỷ qua.
Thất bại của Hoa Kỳ trong chính sách ngoại giao tại Bãi cạn Scarborough còn có “công” rất lớn của bà Ngoại trưởng Hillary Clinton đối với chính sách Xoay trục Châu Á – Thái Bình Dương. (Ảnh: Getty)
Ngay từ thời G.W.Bush, Tổng thống thứ 43 này đã nhiều lần tuyên bố rằng không có khu vực nào quan trọng hơn đối với nước Mỹ là khu vực CA-TBD. Trong chiến lược toàn cầu, Nhà Trắng coi đây là khu vực địa-chiến lược, địa-chính trị trọng yếu, quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia và vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ.
Tháng 10/2011, Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng Hillary Clinton đã lần lượt tuyên bố chiến lược “xoay trục” sang CA-TBD “để đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của nước Mỹ” với nhiều mục tiêu, trong số đó bao gồm việc đối phó với sự quyết đoán ngày một gia tăng của Trung Quốc ở Hoa Đông và Biển Đông.
Tuy nhiên, trong khi bà Ngoại trưởng Mỹ loan rộng chiến lược Xoay trục sang châu Á, thì ở Nhà Trắng, Tổng thống Obama lại cắt giảm quân số và chi tiêu quốc phòng. Điều đó chả khác gì làm suy yếu chính lực lượng hải quân cần thiết để thực thi chiến lược Xoay trục này.
Với động thái của Obama-Clinton, các nhà quan sát lúc đó đã hoài nghi: Tuyên bố Xoay trục có thể chỉ là một nỗ lực “quan hệ công chúng” của chính quyền Obama, và chỉ có ý nghĩa trên mặt “giấy tờ”, nhằm làm có vẻ đây là một chính sách phù hợp, công nhận tầm quan trọng của phía Tây Thái Bình Dương, hòng lôi kéo sự chú ý của người dân Mỹ vào các sáng kiến của chiến lược này.
Vào thời điểm ấy, Tổng thống Obama đang phải đối mặt với các vấn đề đối nội cũng như chính sách đối ngoại bê bết, đặc biệt là sự bế tắc Nga-Ukraine và sự trỗi dậy của ISIS ở Trung Đông.
Kể từ khi ông Obama nhậm chức, Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều vào việc mở rộng các khu đảo nhân tạo phi pháp để ngăn chặn Mỹ đến bảo vệ các nước “yêu sách” ở Biển Đông. Trung Quốc cũng ráo riết gia nhập cùng Mỹ và Nga, trở thành cường quốc hạt nhân mới với khả năng phóng tên lửa đạn đạo hạt nhân từ tàu ngầm, trên không và trên bộ.
Việc Obama cắt giảm sâu ngân sách quốc phòng khiến quân đội Mỹ gặp khó khăn trong việc phát triển khả năng chống lại hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc. Ngân sách quốc phòng Mỹ giảm dần đều, 2009 là hơn 691 tỷ đô la thì đến 2015 chỉ còn 580 tỷ đô la (2). Từ 2011 – 2015, ngân sách quốc phòng Mỹ đã giảm 21% trong khi ngân sách quân sự của Trung Quốc tăng 38%.
Xoay trục CA-TBD có nghĩa là khu vực này đã trở lại là trọng tâm an ninh quốc gia của nước Mỹ. Điều đó có nghĩa là chính quyền Obama phải điều chuyển 60% hạm đội hải quân sang phía Tây Thái Bình Dương, nhưng ngược lại, Obama lại giảm số lượng tàu chiến xuống mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ. Một quan chức Mỹ nói rằng, việc cắt giảm ngân sách này “ở mức thấp kỷ lục mọi thời đại”: Quân số giảm, nhóm tàu tác chiến thì già nua, và từng là biểu tượng của sự bất khả xâm phạm – nhóm tàu sân bay của Mỹ trông ngày càng cổ xưa.
Vì vậy, các đồng minh của Mỹ tại CA-TBD lo lắng đặt câu hỏi, liệu chiến lược Xoay trục châu Á chỉ đơn thuần là bài hùng biện của Obama? Giới lãnh đạo ĐCSTQ dường như “bắt ý” được mục đích Xoay trục của chính quyền Obama còn nhanh hơn thế nhiều.
Việc Obama cắt giảm sâu ngân sách quốc phòng khiến quân đội Mỹ gặp khó khăn trong việc phát triển khả năng chống lại hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc. (Ảnh: Getty)
Để “đối phó” với nước Mỹ của Obama chỉ có củ cà rốt (là tài hùng biện), và cây gậy nhỏ (cắt giảm quân số và chi tiêu quốc phòng), Trung Quốc nhanh chóng tung các hạm đội tàu chiến, tàu hải cảnh và tàu dân quân biển trá hình lấp đầy khoảng trống trên Biển Đông do thiếu vắng bóng tàu của lực lượng hải quân Mỹ.
Obama ngó lơ, Trung Quốc cưỡng đoạt Biển Đông
Trong vòng ba năm, từ 2013-2015, Trung Quốc đã đẩy mạnh hoạt động cải tạo đất trên các rạn san hô và đảo san hô trong chuỗi đảo Trường Sa ở Biển Đông, nơi mà Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei tuyên bố có chủ quyền.
Các tàu Trung Quốc đã làm việc với tốc độ “kinh hoàng”, nạo vét các bến cảng mới, trung bình mỗi ngày đã “xuất hiện” thêm 96,5m2 diện tích đất trên Biển Đông, trong khi đội cần cẩu hoạt động hết công suất để bồi đắp các đảo nhân tạo trên mỏm các rạn san hô chìm.
Tháng 9/2013, Trung Quốc bắt đầu các hoạt động nạo vét, bồi đắp, cải tạo trên diện rộng tại năm điểm đảo là Châu Viên, Chữ Thập, Gạc Ma, Ga Ven và Ken Nan mà Trung Quốc chiếm đóng trái phép của Việt Nam. Năm 2014, Trung Quốc ráo riết thúc đẩy các hoạt động này hơn nữa, và so với quần đảo Hoàng Sa thì Trường Sa được Trung Quốc chú trọng đẩy mạnh cải tạo hơn.
Năm 2014 có thể nói là năm Trung Quốc đẩy mạnh xây đảo một cách điên cuồng nhất, khởi đầu bằng việc bồi đắp trái phép 7 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam thành các đảo nhân tạo với bến cảng, đường băng và căn cứ quân sự kiên cố, nơi Trung Quốc bố trí thường trực một số lượng lớn tàu ngầm, máy bay ném bom và chiến đấu cơ trong khu vực. Mỗi tuần, dường như lại có tin tức về một đảo nhân tạo phi pháp của Trung Quốc đang được cải tạo gấp rút.
Từ năm 2013-2015, Trung Quốc đã đẩy mạnh hoạt động cải tạo đất trên các rạn san hô và đảo san hô trong chuỗi đảo Trường Sa ở Biển Đông. Ảnh: Đảo Gạc Ma từ năm 2012 – 2014. (Ảnh chụp video)
Ở sâu dưới lòng Biển Đông, tình hình trở nên tồi tệ hơn khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát bằng cách xây dựng một mạng lưới radar ngầm. Trên bầu trời Biển Đông, Trung Quốc thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ). Bỏ qua các yêu sách của các nước láng giềng, Trung Quốc đơn phương tuyên bố sáp nhập hơn 80% diện tích Biển Đông, mà không gặp phải bất cứ rào cản nào từ phía chính quyền Obama, trong khi các nước tranh chấp chỉ có cách duy nhất là yếu ớt phản đối.
Một quan chức cấp cao của Mỹ đã mô tả mức độ của việc xây đảo trong năm 2014 là “chưa từng có từ trước đến nay”. Báo cáo thường niên của Bộ Quốc phòng Mỹ ngày 8/5/2015 cũng cho biết, Trung Quốc “đã mở rộng diện tích các đảo họ đang chiếm trong Biển Đông lên gấp khoảng 400 lần”.
Là đồng minh của một số quốc gia trong khu vực tranh chấp với Trung Quốc, Mỹ có nghĩa vụ bảo vệ họ theo hiệp ước khi bị tấn công. Bởi không một quốc gia nào ở châu Á, hay một liên minh các quốc gia châu Á có đủ sức mạnh quân sự để có thể kiềm chế Trung Quốc.
Sự hung hăng của Trung Quốc trong các tranh chấp ở Biển Đông được coi là “phép thử” cho chính quyền Obama trong việc giữ gìn hiện trạng, và ngăn chặn sức mạnh của Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương.
Tuy nhiên Tổng thống Obama không bao giờ chấp nhận lập luận ngăn chặn, và hoài nghi về mối đe dọa của Trung Quốc đối với lợi ích của Mỹ và các đồng minh. Trước sự “án binh bất động” của ông chủ Nhà Trắng, Lầu Năm Góc đã thúc đẩy Nhà Trắng cần có lập trường mạnh mẽ và quyết đoán hơn đối với Trung Quốc.
David Shear, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng khu vực CA-TBD đã lập luận rằng, việc xây đảo nhân tạo của Trung Quốc có thể cho phép quốc gia độc tài này cải thiện khả năng phòng thủ và tấn công, cũng như mở rộng sự hiện diện của hải quân Trung Quốc ở phía nam Biển Đông.
Đô đốc Harry Harris, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương đã “thuyết phục” Obama bằng một chiến dịch bền bỉ làm rõ hồ sơ “chiếm đất” của Trung Quốc, và đề xuất biện pháp răn đe mạnh không chỉ đối với cuộc diễn tập hải quân, mà còn bao gồm các chuyến bay trinh sát hàng hải để ngăn chặn cái mà ông gọi là ‘Vạn Lý Trường Thành’ trên Biển Đông của Trung Quốc.
Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter lúc đó đã yêu cầu xem xét các lựa chọn, bao gồm cử máy bay giám sát và điều các tàu chiến của Mỹ áp sát phạm vi 12 hải lý quanh các đảo nhân tạo.
Tiếc thay, tất cả các đề xuất trên của Lầu Năm Góc đều gặp phải sự kháng cự từ Nhà Trắng, vốn chưa bao giờ sẵn sàng đối đầu với Bắc Kinh về mọi mặt, đặc biệt là quân sự. Chính quyền Obama luôn lo ngại sự gia tăng căng thẳng leo thang trong khu vực, sẽ làm phật lòng Bắc Kinh.
ến lược ngoại giao sai lầm, hành động bất nhất với lời nói trong 8 năm của tổng thống Obama là thời cơ vàng để Trung Quốc hiện thực hóa ý đồ chiếm trọn Biển Đông. (Ảnh chụp video)
Một cựu sĩ quan thuộc văn phòng của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phàn nàn rằng, Nhà Trắng dường như bị “tê liệt” vì lúc nào cũng phải “thận trọng” trước những rủi ro ‘kích động’ Trung Quốc, khi hạ lệnh cho các chiến hạm Mỹ “nhổ neo” thực hiện Tuần tra vì tự do lưu thông hàng hải (FONOP).
Theo lệnh của ông Obama, Lầu Năm Góc phải lập kế hoạch tiến hành các cuộc tuần tra hàng hải từng bước, và kế hoạch này phải chuyển từ Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương đến Lầu Năm Góc, rồi phải qua sự “kiểm duyệt” khắt khe của Bộ Ngoại giao, rồi cuối cùng là Hội đồng An ninh Quốc gia Nhà Trắng xét duyệt. Bất cứ hoạt động tuần tra nào đều phải phụ thuộc vào các ưu tiên chính trị của ông chủ Nhà Trắng Barack Obama.
Dưới thời Obama, Hải quân Mỹ chỉ được phép tiến hành 3 chuyến vào năm 2016, 2 chuyến năm 2015 và hoàn toàn vắng bóng trong năm 2014 – đây cũng là năm mà Trung Quốc đẩy mạnh việc xây dựng đảo phi pháp dữ dội nhất.
Trong chính quyền Obama, Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter là một trong những người hiếm hoi thể hiện lập trường cứng rắn với Trung Quốc. Chính vì vậy mà ông không nhận được nhiều sự ủng hộ tại Nhà Trắng, đặc biệt là Tổng thống Obama. Ash Carter cũng là Bộ trưởng Quốc phòng duy nhất dưới thời Obama không đến thăm Trung Quốc. Năm 2018, ông đã có bài chia sẻ với tiêu đề: Những phản ảnh về chiến lược lớn của Mỹ ở châu Á. Dưới đây là một số trích đoạn:
“Ông (Obama) tin rằng các nhà tư tưởng chính sách đối ngoại truyền thống của Washington có khuynh hướng tìm đến những chiến lược đối đầu và ngăn chặn mỗi khi cần có cách tiếp cận ít mạnh mẽ hơn. Vì vậy, ông xem xét các khuyến nghị của tôi và những người khác để thách thức mạnh mẽ hơn các yêu sách hàng hải quá mức và các hành vi phản tác dụng khác của Trung Quốc. Khi tôi công du đến châu Á, mệnh lệnh của ông ấy thật ngắn gọn: “Đừng có khua xoong chảo ầm ĩ lên.” Tôi không được gây rắc rối.
… Và đó rốt cuộc là lý do tại sao tôi là bộ trưởng quốc phòng duy nhất trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống Obama không đến thăm Trung Quốc.
Về mặt cá nhân, điều này gây thất vọng sâu sắc. Chủ tịch Tập Cận Bình thậm chí đích thân mở lời mời: Trong chuyến thăm cấp nhà nước của Tập vào tháng 9 năm 2015, tôi là một trong số các quan chức đã gặp ông tại Nhà Trắng trước bữa quốc yến tối hôm đó. Tập đã tìm đến tôi, dẫn theo Tổng thống Obama, và nói rằng ông ấy muốn tôi đến thăm Trung Quốc. Thượng cấp của tôi sẵn sàng đồng ý, nói rằng, “Ash, anh nên làm điều đó”.
Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter đã thêm một xác nhận rằng, vị Thượng cấp của ông – Tổng thống Obama đã yếu đuối và “lấy lòng” Trung Quốc như thế nào…
Obama nói nhiều làm ít, Tập Cận Bình không nói mà làm
Tháng 9/2015, ông Tập Cận Bình có chuyến thăm đầu tiên tới Mỹ với tư cách là Chủ tịch nước Trung Quốc. Thời điểm này, Trung Quốc vẫn đang đẩy mạnh tốc độ và cường độ cải tạo các bãi đá thành các đảo nhân tạo dành cho các mục đích quân sự, mà không hề gặp phải bất cứ sự răn đe nào từ Mỹ, ngoài những phát biểu phản đối mang tính ngoại giao vô thưởng vô phạt từ Nhà Trắng. Tại Mỹ, đã có những luồng dư luận thúc giục chính quyền Obama phải phản ứng mạnh mẽ hơn trước sự hung hăng của Trung Quốc.
Tại phiên điều trần của Ủy ban Quân sự của Thượng viện diễn ra trước chuyến thăm Washington của Tập Cận Bình, Thượng nghị sĩ John McCain, người đứng đầu Ủy ban đã chỉ trích chính quyền Obama: “Chính quyền đã tiếp tục hạn chế các tàu Hải quân của chúng ta hoạt động trong phạm vi 12 hải lý quanh các đảo. Đây là một sai lầm nguy hiểm cho phép công nhận thực tế các yêu sách chủ quyền nhân tạo của Trung Quốc”.
Cuộc gặp cấp cao giữa hai nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới được kỳ vọng sẽ giải quyết các vấn đề quan trọng như an ninh mạng, khí hậu, năng lượng, và đặc biệt là Biển Đông. Tuy nhiên, các thông cáo báo chí của Nhà Trắng được công bố sau cuộc gặp đã không hề đề cập tới vấn đề Biển Đông (6).
Khi tôi công du đến châu Á, mệnh lệnh của ông ấy (Obama) thật ngắn gọn: “Đừng có khua xoong chảo ầm ĩ lên.” Tôi không được gây rắc rối. (Ảnh: Getty)
Ngày 25/9/2015, tại Vườn Hồng Tổng thống Obama nhắc ông Tập Cận Bình về “quyền tự do hàng hải” và khẳng định “Mỹ sẽ hoạt động ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép”. Đáp lại, Tập Cận Bình cam kết tôn trọng và ủng hộ tự do hàng hải nhưng cho biết Trung Quốc có “quyền bảo vệ chủ quyền lãnh thổ” cũng như phủ nhận nước này đang quân sự hóa các đảo nhân tạo trên biển Đông.
Tổng thống Obama là nhà hùng biện, nhưng lời nói ít đi đôi với việc làm. Trong khi Obama tuyên bố sẽ cho tàu Mỹ hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép thì Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng David Shear đã trả lời Thượng nghị sĩ John McCain trong phiên điều trần tại Thượng viện rằng, “các cuộc tuần tra như vậy (trong phạm vi 12 hải lý) đã không được tiến hành kể từ năm 2012”. (7)
Trong khi Tập Cận Bình phủ nhận Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo, thì việc cưỡng đoạt đất, xây dựng các đảo nhân tạo trái phép tại Biển Đông chưa bao giờ ngừng lại cho tới ngày Tổng thống Obama rời Nhà Trắng, và vẫn tiếp diễn cho tới ngày hôm nay.
Obama chỉ phản đối miệng về Biển Đông và kêu gọi giải quyết tranh chấp Biển Đông dựa trên luật pháp quốc tế. Thay vì song song áp dụng biện pháp răn đe quân sự, Obama lại đẩy “trách nhiệm” sang trông chờ hoàn toàn vào hệ thống pháp luật quốc tế, vốn luôn bị Trung Quốc chây ì, bất hợp tác và từ chối tham dự vào các cuộc phân xử quốc tế.
Mục đích của TQ là muốn tiến hành các cuộc đàm phán song phương với từng quốc gia tranh chấp tại Biển Đông để dễ bề “bắt chẹt”, biến từ khu vực có chủ quyền thành vùng tranh chấp, buộc các nước nhỏ yếu thế phải gật đầu cùng “khai thác chung”, và cuối cùng sẽ tiến tới biến thành vùng biển của Trung Quốc Đại lục.
Khi ấy chuyên gia phân tích vấn đề quốc phòng tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Mỹ là đại úy Jerry Hendrix nhận định: “Mỹ sẽ đợi cho đến khi tòa án Hague đưa ra phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Quốc trước khi có thêm bất cứ động thái cứng rắn khác”. Tuy nhiên, ông Hendrix cũng cảnh báo: “Mỗi ngày trôi qua mà không có động thái thách thức đáng kể nào đối với tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông đồng nghĩa với một cơ hội đã qua đi”.
Trên Foreign Policy (2016), hai cố vấn của ông Trump là Alexander Gray và Peter Navarro từng nhận định về chiến lược “tái cân bằng” ở châu Á dưới thời ông Obama là “nói nhiều làm ít”, và kết luận rằng “sự xoay trục yếu ớt của Obama – Clinton đã mời Trung Quốc vào xâm chiếm biển Hoa Đông và biển Đông”.
Obama yếu nhược, nước Mỹ hụt hơi, đồng minh tan tác
Bất chấp Trung Quốc càn quét Biển Đông, Tổng thống Obama vẫn tiếp tục sách lược chủ đạo với Trung Quốc là hợp tác và đối thoại, với biện minh “ngăn chặn là không thể thực hiện được”.
Đối mặt với những chỉ trích rằng chính quyền Obama đang đánh giá cao những lời hứa viển vông “trấn an” của Trung Quốc mà hy sinh lợi ích của Mỹ và đồng minh, Phó Tổng thống Joe Biden nói rằng, Washington không muốn kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc vì mối quan hệ Mỹ-Trung là “quá quan trọng. Không chỉ chúng tôi phụ thuộc vào nó, mà thế giới còn phụ thuộc vào thành công chung của chúng tôi”.
Đứng trước viễn cảnh đó, các đồng minh châu Á đã vỡ mộng khi trông cậy vào cái ô an ninh của Mỹ. Cuộc chiến ngân sách dẫn đến việc chính phủ Mỹ phải đóng cửa vào tháng 10/2013, khiến Tổng thống Obama phải hủy liên tiếp chuyến công du châu Á dự ba hội nghị thượng đỉnh quan trọng nhất của khu vực là Hội nghị Thượng đỉnh APEC, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á và Hội nghị ASEAN.
Sự vắng mặt của Tổng thống Obama do sự tê liệt chính trị tại quê nhà đã làm dấy lên những lo ngại về những hạn chế của chính sách “tái cân bằng” châu Á của Washington. Vắng bóng Mỹ tại các hội nghị thượng đỉnh tại châu Á, các quốc gia nhỏ bé đã phải “đơn thương độc mã” đối mặt với gã khổng lồ đầy mưu mô: Trung Quốc. Về cơ bản, chiến lược Xoay trục của Obama tại CA-TBD đã mất đà ngay khi nó bắt đầu.
“Chính quyền đã tiếp tục hạn chế các tàu Hải quân của chúng ta hoạt động trong phạm vi 12 hải lý quanh các đảo. Đây là một sai lầm nguy hiểm cho phép công nhận thực tế các yêu sách chủ quyền nhân tạo của Trung Quốc.” – Thượng nghị sĩ John McCain nói. (Ảnh: Getty)
Các nhà lãnh đạo châu Á lo ngại về một Obama “không thích rủi ro” hẳn sẽ là một đối tác không đáng tin cậy. Rõ ràng, chính quyền Obama không có các biện pháp ngăn chặn chương trình xây đảo gây tranh cãi của Trung Quốc ngay trên tuyến đường vận chuyển quốc tế của Biển Đông. Đây là bằng chứng cho thấy chiến lược “Xoay trục” của Obama chính thức thất bại.
Các tàu tuần tra của Mỹ, được sự hậu thuẫn của hải quân Nhật Bản đã ít có tác động rõ rệt tới việc ngăn cản sự hung hăng của các tàu hải giám Trung Quốc, trong khi Nhà Trắng lại luôn lo ngại gia tăng nguy cơ đối đầu trực tiếp.
Trung Quốc đã thẳng thừng bác bỏ phán quyết của Tòa án Trọng tài Quốc tế của Liên Hợp Quốc trước đây về tuyên bố chủ quyền của Philippines tại Trường Sa. Bắc Kinh cũng có lập trường không khoan nhượng trong tranh chấp với Nhật Bản về quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) ở Biển Hoa Đông. (8)
Theo các nhà quan sát, việc Bắc Kinh đẩy mạnh xây dựng đảo nhân tạo tại Trường Sa, sẽ là bàn đạp trong cuộc đua giành lợi thế chiếm đảo Điếu Ngư trước Nhật Bản. Từ đây, Trung Quốc có thể cô lập Đài Loan và có sẵn các tiền đồn quân sự để thống nhất Đài Loan.
Sự yếu đuối của Obama trước sự hung hăng của Tập Cận Bình khiến một số đồng minh châu Á không còn trông cậy vào nước Mỹ được nữa, đã tự thân vận động, mạnh ai nấy lo.
Ngày 21/9/2016, Bộ Quốc phòng Đài Loan yêu cầu Google làm mờ hình ảnh vệ tinh về những gì được cho là công trình quân sự của Đài Loan mới xây dựng trên đảo Ba Bình mà Đài Loan gọi là đảo Itu Aba, còn Trung Quốc gọi là đảo Thái Bình. Đây là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. (9)
Kinh ngạc nhất là thái độ của Philippines – một đồng minh thân thiết của Mỹ. Hiệp định Tăng cường Hợp tác Quốc phòng Mỹ – Philippines đã cho phép Mỹ gia tăng đáng kể sự hiện diện trong khu vực Đông Nam Á và Biển Đông. Khi Rodrigo Duterte lên làm Tổng thống Philippines, ông không ngần ngại lăng mạ gọi Obama là “con trai của điếm”, tiếp theo bồi thêm một cú tuyên bố “ly khai” với Mỹ, bắt tay với Trung Quốc, hủy các cuộc tuần tra chung tại Biển Đông với Mỹ, khiến mối quan hệ Manila-Washington như bị dội cả xô nước lạnh.
Tuy nhiên, Thái Lan mới chính là thất bại lớn nhất trong chiến lược “Xoay trục” của Obama. Đây là quốc gia trụ cột trong chiến lược của Mỹ ở khu vực, đóng vai trò là cửa ngõ để Mỹ tiếp cận châu Á và thường được coi là đồng minh chủ chốt của Mỹ ngoài NATO. Tuy nhiên tiếng nói của Mỹ đã không còn sức ảnh hưởng với Bangkok nữa, trong khi đó Trung Quốc đang ra sức lôi kéo Thái Lan một cách khôn khéo, thông qua chiến lược ngoại giao kinh tế kết hợp với văn hóa.
Sự yếu thế của chính quyền Obama còn thể hiện rõ tại Hội nghị ASEAN tổ chức tại Lào (9/2016) khi bản Tuyên bố chung của Hội nghị đã cố tình không đề cập đến phán quyết của Tòa án Trọng tài Quốc tế Liên Hợp Quốc phủ nhận các tuyên bố của quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, bất chấp một đề xuất có sự hậu thuẫn của Mỹ.
Giải trừ vũ khí hạt nhân là ưu tiên hàng đầu trong năm 2009 của chính quyền Obama, nhưng đã phải chịu thất bại trong việc ngăn chặn Triều Tiên đang ngày càng thách thức gia tăng việc theo đuổi vũ khí hạt nhân. Việc Triều Tiên tiến hành vụ thử hạt nhân với cường độ mạnh nhất vào tháng 9/2016, ngay khi Tổng thống Obama đang có chuyến công du tại châu Á không khác gì ngang nhiên thách nước Mỹ, đã khiến nhiều người trên thế giới phải bàng hoàng (10).
Sự bất lực của Obama đã làm dấy lên mối lo ngại ở Nhật Bản và Hàn Quốc về độ tin cậy của chiếc ô an ninh Mỹ, khiến một bộ phận những người theo chủ nghĩa dân tộc cho rằng Nhật Bản nên tái vũ trang một cách nghiêm túc, hoặc thậm chí triển khai vũ khí hạt nhân cho riêng mình. Mối e ngại chính của Nhật Bản và Hàn Quốc không phải là Bắc Triều Tiên, mà chính là quốc gia độc tài Trung Quốc. Tiếc thay, Mỹ lúc này trở nên bất lực và yếu nhược trước Trung Quốc.
Phó Tổng thống Joe Biden nói rằng, Washington không muốn kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc vì mối quan hệ Mỹ-Trung là “quá quan trọng. Không chỉ chúng tôi phụ thuộc vào nó, mà thế giới còn phụ thuộc vào thành công chung của chúng tôi”. (Ảnh: Getty)
Hệ quả
Chiến lược Xoay trục châu Á đã hoàn toàn thất bại. Một nước Mỹ suy yếu, trong khi Trung Quốc đang đà phát triển. Với chính quyền Barack Obama, Tập Cận Bình không phải lo lắng chống đỡ hay đối đầu, cũng như không cần tìm kiếm một cuộc chiến thương mại hay quân sự.
Tập Cận Bình có một “vũ khí” hiệu quả. Thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường, Trung Quốc đã lập các chân rết thông qua quan hệ đối tác thương mại và kinh tế mở rộng từ châu Á đến Trung Đông và châu Phi, dần dần siết chặt các quốc gia phải phụ thuộc chính trị và kinh tế với đất nước độc tài này. Thật không may, nhiều quốc gia trong số đó là đồng minh của nước Mỹ.
Khi Rodrigo Duterte lên làm Tổng thống Philippines, ông ta đã lăng mạ Obama là là “con trai của điếm”, tiếp theo bồi thêm một cú tuyên bố “ly khai” với Mỹ, bắt tay với Trung Quốc. (Ảnh: Getty)
Trong suốt 8 năm ở cương vị Tổng tư lệnh của nước Mỹ, Barack Obama đã nhiều lần hứa sẽ duy trì danh tiếng cho quân đội Mỹ mãi là “lực lượng chiến đấu hùng mạnh nhất mà thế giới từng biết”. Nhưng những việc ông làm đều hoàn toàn trái ngược: Cắt giảm lực lượng vũ trang và chi tiêu quốc phòng, tránh xa sức mạnh quân sự truyền thống, và không thể bảo vệ đồng minh cũng như các lợi ích của Hoa Kỳ ở nước ngoài .
Khi trúng cử tổng thống nhiệm kỳ 2 năm 2012, Barack Obama hứa sẽ chuyển hướng chính sách đối ngoại của chính quyền ông về hướng Đông, đối trọng với Trung Quốc. Nhưng khi Obama rời Nhà Trắng vào đầu năm 2017, nước Mỹ ngày càng bất lực và yếu thế hơn tại khu vực này.
Barack Obama đã để lại một di sản nguy hại cho chính quyền kế nhiệm Donald Trump, khi “biên giới” nguy hiểm nhất giữa Mỹ và Trung Quốc ngày hôm nay chính là địa hình đầy tranh cãi ở Thái Bình Dương: Đài Loan, Triều Tiên, Biển Đông, Hoa Đông cùng hàng loạt các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đã gấp rút hoàn tất trong 8 năm cầm quyền yếu nhược của Tổng thống Barack Obama.
Ngày 10/1/2017, trong bài phát biểu chia tay với những người ủng hộ tại Chicago, nhà hùng biện Barack Obama tuyên bố: “Nước Mỹ đang tốt đẹp hơn, vững mạnh hơn so với khi chúng tôi bắt đầu” khi ông nói về những thành tựu trong 8 năm cầm quyền của mình…